04/03 7 cuộc khủng hoảng giá dầu trong lịch sử

Thứ Sáu, 4-03-2011 - 09:01 SA Theo vnexpress

Dù tăng hay giảm giá, mỗi cuộc khủng hoảng dầu lửa trong 40 năm qua đều gắn liền với xung đột chính trị và suy thoái kinh tế, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình hình tài chính toàn cầu.

1. Khủng hoảng dầu lửa Trung Đông 1973 - 1975


Khủng hoảng dầu lửa 1973-1975 khiến giá tăng vụt và người mua phải xếp hàng dài.


Khủng hoảng dầu mỏ bắt đầu diễn ra từ ngày 17/10/1973 khi các nước thuộc Tổ chức Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) quyết định ngừng cung cấp nhiên liệu sang Mỹ, Nhật và Tây Âu, nhằm trừng phạt cho sự ủng hộ của nhóm này đối với Israel trong cuộc xung đột giữa Israel và liên quân Ai Cập - Syria. Lượng dầu bị cắt giảm tương đương với 7% sản lượng của cả thế giới thời kỳ đó. Sự kiện này đã khiến giá dầu thế giới tăng cao đột ngột và gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế 1973-1975 trên quy mô toàn cầu. Ngày 16/10/1973, giá dầu mỏ từ 3,01 USD nhảy lên 5,11USD một thùng, và tăng đến gần 12 USD vào giữa 1974.

Đây được xem là cơn khủng hoảng đáng nhớ nhất trong thời kỳ những năm 1970. Những ai từng trải qua "cơn khủng hoảng dầu Trung Đông" sẽ không thể nào quên cảnh hàng người dài dằng dặc chờ đợi trước các cây xăng bởi nguồn cung ứng thiếu hụt nghiêm trọng và giá cả tăng cao. Trong thời gian khủng hoảng, tại nhiều bang ở Mỹ mỗi người dân chỉ được phép mua một lượng nhiên liệu nhất định, giá đã tăng trung bình 86% chỉ trong vòng một năm từ 1973 đến 1974.

Thêm vào đó, một biến cố lớn nữa xảy đến với thị trường chứng khứng toàn cầu vào năm 1973 - 1974. Chỉ số FT30 của Sở giao dịch chứng khoán London bốc hơi 73% giá trị, khiến đôla Mỹ mất giá và làm cuộc khủng hoảng dầu lửa thêm tồi tệ. Thị trường chứng khoán Mỹ bốc hơi 97 tỷ đôla, số tiền khổng lồ thời điểm đó, chỉ sau một tháng rưỡi. Trong suốt cuộc khủng hoảng, tại Mỹ, GDP giảm 3,2%, tỷ lệ thất nghiệp chạm mức 9%. Suy thoái và lạm phát lan rộng gây ảnh hưởng tới kinh tế toàn cầu cho tới tận thập niên 1980.

2. Cách mạng Iran và biến động thị trường dầu lửa năm 1979

Cách mạng Iran đã gây ra cuộc khủng hoảng dầu lửa lớn thứ hai thế giới.


Cách mạng Hồi giáo Iran được mệnh danh cuộc cách mạng lớn thứ 3 trong lịch sử nhân loại, sau Cách mạng Pháp, Tháng Mười Nga, và đã gây ra cuộc khủng hoảng dầu lửa lớn thứ hai thế giới.

Vào đầu 1978, Iran xuất khẩu 5,4 triệu thùng dầu mỗi ngày, chiếm 17% tổng sản lượng của OPEC. Nhưng khi cách mạng Iran lật đổ chính quyền quân chủ của Shah, ngành công nghiệp vàng đen của nước này dưới chế độ mới đã giảm mạnh bởi sự tàn phá của các lực lượng đối lập. Trong nỗ lực kìm giá dầu, Ảrâp Xêút và các nước thuộc OPEC khác đã nhất loạt tăng sản lượng. Kết quả là lượng khai thác chỉ giảm 4% so với trước Cách mạng Hồi giáo Iran.

Tuy nhiên, giá dầu vẫn bốc lên ngất ngưởng do nỗi sợ hãi của thị trường, cộng thêm việc việc Tổng thống Mỹ Jimmy Carter ra lệnh ngừng nhập khẩu dầu từ Iran. Chỉ trong vòng 12 tháng, mỗi thùng dầu nhảy vọt từ 15,85 USD lên 39,5 USD.

Đây chính là tiền đề cho cuộc khủng hoảng kéo dài 30 tháng tại Mỹ. Giá năng lượng đi lên kéo theo lạm phát gia tăng, đạt đỉnh 13,5% trong năm 1980, buộc Cục Dự trữ Liên bang (FED) phải thực hiện hàng loạt chính sách thắt chặt tiền tệ.

Không chỉ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng một cách đáng lo ngại với từ mức 5,6% của tháng 5/1979 lên 7,5% một năm sau đó. Dù kinh tế bắt đầu hồi phục trong năm 1981, tỷ lệ thất nghiệp vẫn được duy trì ở mức cao 7,5% và đạt kỷ lục 10,8% vào 1982.

Hậu quả của suy thoái tồi tệ đến nỗi các ngành công nghiệp xe hơi, nhà đất, và sản xuất thép đều liên tục sụt giảm trong 10 năm sau, cho tới tận khi cuộc khủng hoảng giá dầu tiếp theo kết thúc.

3. Giá dầu tụt thê thảm vào những năm 1980

Kinh tế thế giới èo uột khiến giá dầu tụt thê thảm năm 1980.



Từ 1981 đến 1986, do tăng trưởng kinh tế chậm tại các nước công nghiệp (hậu quả của các cuộc khủng hoảng năm 1973 và 1979), nhu cầu tiêu thụ dầu trên toàn thế giới chậm lại. Ở các nước tiêu thụ dầu lớn như Mỹ, Nhật và châu Âu, nhu cầu nhiên liệu giảm 13% từ năm 1979 đến 1981. Hệ quả là giá dầu giảm mạnh từ 35 USD hồi 1981 xuống dưới 10 USD một thùng năm 1986.

Giá giảm đã làm lợi cho rất nhiều nước tiêu thụ lớn như Mỹ, Nhật, châu Âu và thế giới thứ 3, nhưng lại gây tổn thất nghiêm trọng cho các nước xuất khẩu dầu ở Bắc Âu, Liên Xô và khối OPEC. Nhiều công ty nhiên liệu của Mexico, Nigeria và Venezuela đến bên bờ vực phá sản. Dầu mất giá còn khiến khối OPEC mất đi sự đoàn kết.

4. Cơn sốt giá dầu năm 1990

Những giếng dầu bốc cháy trong cuộc chiến vùng Vịnh thời kỳ 1990, vốn là nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng giá nhiên liệu thời kỳ đó.


Giá dầu thế giới một lần nữa tăng vọt 13% vào tháng 8/1990 vì cuộc chiến tranh vùng Vịnh giữa Iraq và liên quân hơn 30 quốc gia do Mỹ lãnh đạo để giải phóng Kuwait.

Sau cuộc chiến, Liên Hợp Quốc áp dụng lệnh cấm xuất khẩu dầu toàn phần đối với Iraq và Kuwait. Chính lệnh cấm vận này đã lấy đi của thị trường dầu mỏ thế giới gần 5 triệu thùng mỗi ngày, khiến giá tăng cao.

Cơn sốt lần này kéo dài trong 9 tháng và giá không vượt đỉnh các cuộc khủng hoảng trước (hồi 1973 và 1979 - 1980). Tại thời điểm đó, mỗi thùng dầu đắt gấp đôi chỉ trong vòng 2 tháng, từ 17 USD lên 36 USD mỗi thùng. Chỉ khi lực lượng Liên quân do Mỹ lãnh đạo đưa quân vào giải phóng Kuwait, tình trạng thiếu nguồn cung mới chấm dứt và giá bắt đầu hạ.

Khủng hoảng này phần nào là nguyên nhân dẫn tới cuộc suy thoái kinh tế ở Mỹ với sự sụp đổ của thị trường tín dụng. Một loạt cường quốc chịu nhiều ảnh hưởng gián tiếp như Canada, Australia, Nhật, hay Anh cũng bị cuốn vào vòng xoáy suy thoái.

5. Giá dầu xuống dốc năm 2001

Sau năm 2000, kinh tế toàn cầu giảm sút, đặc biệt là từ sau sự kiện khủng bố 11/9 tại Mỹ, giá dầu thế giới càng giảm mạnh hơn. Năm 2001 mỗi thùng dầu chỉ còn 20 USD một thùng, giảm 35% so với trước. Nhu cầu nhiên liệu giảm mạnh cũng góp phần vào sự giảm giá dầu.

6. Đợt khủng hoảng giá dầu nghiêm trọng năm 2007 - 2008

Khủng hoảng giá dầu năm 2007-2008 trước khi thế giới rơi vào cuộc suy thoái toàn cầu.


Năm 2007, giá dầu leo thang tiến gần 100 USD. Trong bối cảnh đồng USD mất giá nghiêm trọng, nhiều nước có dự trữ đôla Mỹ lớn và khối OPEC đã phải tính đến khả năng chuyển dần sang sử dụng loại ngoại tệ mạnh khác để tính giá dầu. Dầu đắt đỏ và nguy cơ cạn kiệt nguồn cung đã làm bùng lên cuộc tranh chấp giữa các cường quốc về chủ quyền đối với những giếng dầu lớn và đáy biển ở Bắc cực cũng như Nam cực.

Bong bóng nhà ở cùng với sự giám sát tài chính thiếu hoàn thiện của Mỹ đã dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính bùng phát vào giữa năm 2007. Sự đổ vỡ lên đến cực điểm vào tháng 10/2008, lan rộng và đẩy nền kinh thế giới vào cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng nhất kể từ cuộc Đại suy thoái 1929 - 1933. Tại thời điểm này, có lúc giá dầu lên đến mức kỷ lục 145 USD mỗi thùng.

7. Cú sốc dầu lửa 2011

Bạo loạn tại Libya, thành viên lớn thứ 9 trong khối OPEC khiến thị trường nhiên liệu đang trải qua đợt khủng hoảng giá mới.

Bạo loạn tại khu vực Trung Đông và Bắc Phi nói chung cùng những cuộc biểu tình ở Libya thời gian gần đây đang gây sóng gió trên thị trường nhiên liệu, với giá dầu lên mức trên 100 USD một thùng. Hiện tại, các nước châu Âu (ví dụ Italy, Iceland và Áo) phụ thuộc khá nhiều vào dầu mỏ đến từ Libya.

Giá dầu mỏ tăng cao đã và đang ảnh hưởng kinh doanh chứng khoán và vận tải. Giới phân tích tính toán nếu những cuộc bạo loạn hiện nay khiến cho giá dầu tăng thêm 40 đến 50 USD, và tình trạng này kéo dài 1 năm, thì tăng trưởng GDP toàn cầu sẽ mất khoảng 2%.


Từ khóa bài viết: giá dầu, kinh tế thế giới, thị trường dầu lửa

28/03 Lạm phát đang đe dọa châu Á

Thứ Hai, 28-03-2011 - 10:21 SA Theo doanhnhansaigon

Sức ép lạm phát ở châu Á hiện nay lớn hơn các khu vực khác bởi tăng trưởng của châu lục này đã vượt xa Mỹ và châu Âu. Lạm phát tại đây đang de dọa sự phục hồi kinh tế toàn cầu.


Tại Singapore, tỷ lệ lạm phát tháng một đã lên mức cao nhất trong 2 năm qua, ở mức 5,5% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 4,6% của tháng 12/2010. Tỷ lệ này cũng cao hơn nhiều so với dự báo của giới phân tích. Trong tháng 2, lạm phát của nước này có giảm nhẹ nhưng vẫn ở mức cao. Đây cũng là tình hình chung của các nước châu Á, đặc biệt với những nền kinh tế mới nổi.

Lạm phát của Singapore tăng lên là mặt trái của nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, chủ yếu do sự gia tăng chi phí giao thông vận tải, thực phẩm, và giải trí. Chính phủ Singapore dự đoán CPI năm 2011 của nước này vào khoảng 3-4%.

Ở Trung Quốc, người dân đang phải đối mặt với bão giá và lạm phát. Trong tháng 1/2011, lạm phát của nước này tăng 4,9% (tháng 12/2010 là 4,6%), cao hơn mục tiêu của Chính phủ Trung Quốc đến tháng thứ 5 liên tiếp, trong đó giá thực phẩm tăng tới 10,3%. Giới phân tích nhận định, Trung Quốc sẽ phải đối đầu với lạm phát tăng cao hơn nữa trong những tháng tới bởi Chính phủ không thể tăng nhanh nguồn cung cấp thực phẩm. Đáng ngại hơn nữa khi giá xăng dầu tại Trung Quốc tăng do giá thế giới vẫn đi lên.

Các nhà đầu tư lo ngại rằng các biện pháp thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát sẽ khiến kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại, ảnh hưởng đến đà phục hồi của kinh tế toàn cầu vốn chịu tác động bởi tăng trưởng kinh tế Mỹ còn yếu và khủng hoảng nợ công tại châu Âu. Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo mới đây đã tuyên bố kiềm chế lạm phát là mục tiêu quan trọng nhất của Chính phủ Trung Quốc trong năm nay. Ngoài việc nâng lãi suất cơ bản, Chính phủ Trung Quốc cũng đã yêu cầu các ngân hàng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Theo số liệu thống kê, tỷ lệ lạm phát ở Hàn Quốc tháng 2 đã tăng lên mức cao nhất trong 27 tháng qua. Chỉ số giá tiêu dùng của Hàn Quốc tháng 2 đã tăng lên mức 4,5% so với cùng kỳ năm ngoái và tăng 0,8% so với tháng một.

Trong thời gian tới, châu Á phải đối mặt với một thách thức lớn đó là kiềm chế tỷ lệ lạm phát đang tăng ngoài dự đoán, theo Alicia Garcia Herrero - Trưởng ban Kinh tế thuộc BBVA Research. Giới phân tích đang kỳ vọng, ngân hàng trung ương các nước sẽ thắt chặt chính sách tiền tệ hơn nữa.

Theo Moody's Analytics, lạm phát đang ngày càng trở nên đáng lo ngại ở cả 2 khía cạnh là áp lực nhu cầu và giá cả hàng hóa. Trong một số trường hợp, đặc biệt là ở các thị trường mới nổi, lạm phát chủ yếu do nhu cầu tăng mạnh từ việc nền kinh tế tăng trưởng quá nóng. Ở một số nước khác, lạm phát chủ yếu do những tác động bên ngoài như sự tăng lên của giá cả hàng hóa ngoại, đặc biệt là lương thực và năng lượng.

Mặc dù thắt chặt tiền tệ có thể đem lại hiệu quả trong việc chống lạm phát do tăng mạnh của nhu cầu nội địa, nhưng chính sách này lại không mấy tác động tới lạm phát nhập khẩu – điều mà hầu hết các nước, đặc biệt là những nền kinh tế mới nổi đang phải đối mặt. Khu vực duy nhất chính sách tiền tệ thặt chặt có thể tác động đến lạm phát toàn cầu là Mỹ và châu Âu, nhưng việc này là bất khả thi trong thời gian tới bởi mức nhu cầu tăng thấp tại đây.

“Nhìn chung, thế giới buộc phải sống chung với mức lạm phát tăng cao trong những năm tới. Nguy cơ chính của sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu là những nhà hoạch định chính sách không nhận thấy sự khác biệt và việc giá cả hàng hóa tăng cao sẽ dẫn tới phong trào thắt chặt tiền tệ”, Alfredo Coutino, Giám đốc điều hành Moody's Analytics nhận định.

Còn báo cáo của Credit Suisse cho rằng: “Lạm phát tại châu Á là một trong số những yếu tố nhạy cảm nhất và có thể gây ra một cú sốc giá lương thực trên thế giới, ảnh hưởng đến đời sống nhiều người dân, dù các nước có trợ cấp và biện pháp kiểm soát giá lương thực đi nữa”.

Thảm họa động đất và sóng thần gần đây đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế Nhật Bản và tình trạng căng thẳng tại khu vực Trung Đông cũng làm gia tăng áp lực lên giá cả hàng hóa thế giới, tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế thế giới, ông Tharman Shanmugaratnam, Bộ trưởng Tài chính Singapore bình luận.

Từ khóa bài viết: lạm phát, Châu Á, kinh tế toàn cầu